Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này.
Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi:
Hỏi thế gian
Tình ái là gì nhỉ ?
Sống chết một lời hứa luỵ
Nam Bắc phân chia hai đàng
Mưa dầm nắng dãi quan san
Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau
Chung quy một kiếp tình sầu
Khi vui gang tấc
Ngàn sầu biệt ly
Biết cùng ai, biết nói gì
Chỉ trông mây núi người đi không về...
Hỏi thế gian
Tình ái là gì nhỉ ?
Sống chết một lời hứa luỵ
Nam Bắc phân chia hai đàng
Mưa dầm nắng dãi quan san
Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau
Chung quy một kiếp tình sầu
Khi vui gang tấc
Ngàn sầu biệt ly
Biết cùng ai, biết nói gì
Chỉ trông mây núi người đi không về...
Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau:
Phần hán văn:
摸魚兒-雁丘
問世間、情是何物,
直教生死相許?
天南地北雙飛客,
老翅幾回寒暑。
歡樂趣、
離別苦,
就中更有痴兒女。
君應有語,
渺萬里層雲。
千山暮雪,
只影向誰去?
橫汾路、
寂寞當年蕭鼓,
荒煙依舊平楚。
招魂楚些何嗟及,
山鬼暗啼風雨。
天也妒、
未信與,
鶯兒燕子俱黃土。
千愁萬古,
為留待騷人。
狂歌痛飲,
來訪雁丘處。
Phiên âm:
Mô ngư nhi - Nhạn khâu
Vấn thế gian tình thị hà vật
Trực giao sinh tử tương hứa
Thiên nam địa bắc song phi khách
Lão sí kỷ hồi hàn thử
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Tựu trung cánh hữu si nhi nữ
Quân ưng hữu ngữ
Diểu vạn lý tằng vân
Thiên sơn mộ tuyết
Chích ảnh hướng thùy khứ.
Hoành Phần lộ
Tịch mịch đương niên tiêu cổ
Hoang yên y cựu bình Sở
Chiêu hồn Sở ta hà ta cập
Sơn quỷ ám đề phong vũ
Thiên dã đố
Vị tín dữ
Oanh nhi yến tử câu hoàng thổ
Thiên sầu vạn cổ
Vi lưu đãi tao nhân
Cuồng ca thống ẩm
Lai phóng nhạn khâu xứ.
Trên đây là toàn bộ nguyên tác bài từ Mô ngư nhi của Nguyên Hiếu Vấn, một danh sĩ đời Liêu-Kim. Có lần Nguyên Hiếu Vấn đi chơi qua sông Phần, gặp một con nhạn yếu sức rơi xuống chết bên đường. Ông đắp cho con nhạn một nấm mộ. Năm sau đi qua chốn cũ, nhớ lại chuyện xưa, làm bài từ này.
Nguyên Hiếu Vấn 元好問 (1190-1257), tự Dụ Chi 裕之, hiệu Di Sơn 遺山, quê tại Tú Dung, Thái Nguyên (nay là thành phố Hãn Châu, tỉnh Sơn Tây). Nhỏ theo học ông Hách Thiên Đỉnh, thông thuộc kinh sử Bách Gia, 6 năm học thành. Xuống núi Thái Hàng, qua sông Hoàng Hà, văn chương làm Triệu Bỉnh Văn ở Bộ Lễ tán thưởng, danh nổi kinh đô, được xưng tụng Tài tử số một.
Đời Kim Tuyên Tông, năm Hưng Định thứ 5 (1221) đậu tiến sĩ, trấn nhậm Nam Dương, chức huyện lệnh huyện Nội Hương, được đề cử làm chức kiểm soát tại phủ Thượng thư, Trừ Tả Tư Đô Sự, chuyển qua Viên Ngoại lang. Kim Ai Tông, năm đầu Thiên Hưng (1232), nhập Hàn lâm làm việc tiếp nhận, biên soạn sắc dụ của vua. Nhà Kim mất, không làm quan nữa, những năm cuối đời lấy việc trước tác làm việc chính. Từng cùng người trong Trương Nhu Xứ viết "Kim nguyên thực lục", thành sử một thời đại. Về sau tu sửa "Kim sử", viết nhiều bản. Nguyên Hiếu Vấn mở ra văn tông một thời,văn chương độc bộ 30 năm.
Đời Nguyên, Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) nghe danh, cho mời vào làm việc ở Quán Khách Xứ, chưa được trọng dụng thì đã mất.
Để lại "Di Sơn tập", "Trung Châu tập", "Nhâm Thìn tạp biên", truyền lại đời sau. Tản khúc của ông tuy còn lại ít, nhưng đã có ảnh hưởng lớn. Chu Quyền 朱權 nhà Minh trong "Thái Hoà chính âm phổ" 太和正音譜 bình những bài của ông "như cây tùng đơn độc ở vách đá cuối trời". Nhất là bài "Sậu vũ đả tân hà" 驟雨打新荷 nhất thủ, từ ngữ mới lạ, cấu tứ cao siêu, được xướng hoạ truyền tụng rất nhiều.
Vấn thế gian tình thị hà vật
Trực giao sinh tử tương hứa
Thiên nam địa bắc song phi khách
Lão sí kỷ hồi hàn thử
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Tựu trung cánh hữu si nhi nữ
Quân ưng hữu ngữ
Diểu vạn lý tằng vân
Thiên sơn mộ tuyết
Chích ảnh hướng thùy khứ.
Hoành Phần lộ
Tịch mịch đương niên tiêu cổ
Hoang yên y cựu bình Sở
Chiêu hồn Sở ta hà ta cập
Sơn quỷ ám đề phong vũ
Thiên dã đố
Vị tín dữ
Oanh nhi yến tử câu hoàng thổ
Thiên sầu vạn cổ
Vi lưu đãi tao nhân
Cuồng ca thống ẩm
Lai phóng nhạn khâu xứ.
Trên đây là toàn bộ nguyên tác bài từ Mô ngư nhi của Nguyên Hiếu Vấn, một danh sĩ đời Liêu-Kim. Có lần Nguyên Hiếu Vấn đi chơi qua sông Phần, gặp một con nhạn yếu sức rơi xuống chết bên đường. Ông đắp cho con nhạn một nấm mộ. Năm sau đi qua chốn cũ, nhớ lại chuyện xưa, làm bài từ này.
Nguyên Hiếu Vấn 元好問 (1190-1257), tự Dụ Chi 裕之, hiệu Di Sơn 遺山, quê tại Tú Dung, Thái Nguyên (nay là thành phố Hãn Châu, tỉnh Sơn Tây). Nhỏ theo học ông Hách Thiên Đỉnh, thông thuộc kinh sử Bách Gia, 6 năm học thành. Xuống núi Thái Hàng, qua sông Hoàng Hà, văn chương làm Triệu Bỉnh Văn ở Bộ Lễ tán thưởng, danh nổi kinh đô, được xưng tụng Tài tử số một.
Đời Kim Tuyên Tông, năm Hưng Định thứ 5 (1221) đậu tiến sĩ, trấn nhậm Nam Dương, chức huyện lệnh huyện Nội Hương, được đề cử làm chức kiểm soát tại phủ Thượng thư, Trừ Tả Tư Đô Sự, chuyển qua Viên Ngoại lang. Kim Ai Tông, năm đầu Thiên Hưng (1232), nhập Hàn lâm làm việc tiếp nhận, biên soạn sắc dụ của vua. Nhà Kim mất, không làm quan nữa, những năm cuối đời lấy việc trước tác làm việc chính. Từng cùng người trong Trương Nhu Xứ viết "Kim nguyên thực lục", thành sử một thời đại. Về sau tu sửa "Kim sử", viết nhiều bản. Nguyên Hiếu Vấn mở ra văn tông một thời,văn chương độc bộ 30 năm.
Đời Nguyên, Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) nghe danh, cho mời vào làm việc ở Quán Khách Xứ, chưa được trọng dụng thì đã mất.
Để lại "Di Sơn tập", "Trung Châu tập", "Nhâm Thìn tạp biên", truyền lại đời sau. Tản khúc của ông tuy còn lại ít, nhưng đã có ảnh hưởng lớn. Chu Quyền 朱權 nhà Minh trong "Thái Hoà chính âm phổ" 太和正音譜 bình những bài của ông "như cây tùng đơn độc ở vách đá cuối trời". Nhất là bài "Sậu vũ đả tân hà" 驟雨打新荷 nhất thủ, từ ngữ mới lạ, cấu tứ cao siêu, được xướng hoạ truyền tụng rất nhiều.
Người dịch bài này cũng không nhiều, sau đây trích lại để tham khảo
Bài dịch 1: dịch bởi Lang Xet Tu www.maihoatrang.com
Hỏi thế gian tình là gì nhỉ
Mà khiến hẹn thề sinh tử
Cùng phiêu bạt trời nam đất bắc
Cánh mỏi lạnh nồng mấy độ
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Đều là ngơ ngẩn tình nhi nữ
Lời người muốn ngỏ
Xa tít vạn tầng mây
Nghìn non tuyết muộn
Bóng lẻ về đâu nữa.
Sông Phần đó
Tịch mịch năm nào trống gõ
Khói hoang như hồi dẹp Sở
Chiêu hồn khúc Sở kịp chăng ai
Sơn quỷ khóc nhòa mưa gió
Trời ghen đố
Tin chẳng bõ
Yến oanh cũng lấp thành hoàng thổ
Nghìn sầu muôn thuở
Còn mãi đợi người thơ
Dốc khổ ca cuồng
Bên mồ chim nhạn cũ.
bài dịch này hay ở chỗ , giữ nguyên dc thể thơ Mô ngư nhi của tác giả
mà kể cả bằng trắc cũng cân xứng...
Hỏi thế gian tình là gì nhỉ
Mà khiến hẹn thề sinh tử
Cùng phiêu bạt trời nam đất bắc
Cánh mỏi lạnh nồng mấy độ
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Đều là ngơ ngẩn tình nhi nữ
Lời người muốn ngỏ
Xa tít vạn tầng mây
Nghìn non tuyết muộn
Bóng lẻ về đâu nữa.
Sông Phần đó
Tịch mịch năm nào trống gõ
Khói hoang như hồi dẹp Sở
Chiêu hồn khúc Sở kịp chăng ai
Sơn quỷ khóc nhòa mưa gió
Trời ghen đố
Tin chẳng bõ
Yến oanh cũng lấp thành hoàng thổ
Nghìn sầu muôn thuở
Còn mãi đợi người thơ
Dốc khổ ca cuồng
Bên mồ chim nhạn cũ.
bài dịch này hay ở chỗ , giữ nguyên dc thể thơ Mô ngư nhi của tác giả
mà kể cả bằng trắc cũng cân xứng...
Bài dịch 2: dịch bởi Vi Nhất Tiếu www.vietkiem.com thể tự do
Hỏi thế gian, tình là vật gì
Mà khiến ta sống chết một lời hứa lụy
Lữ khách kẻ trời Nam người đất bắc
Khi đôi cánh mỏi, nhớ những lúc ấm lạnh
Khi hoan lạc vui vầy
Lúc chia ly đau khổ
Đều chỉ vì si mê một người con gái
Lời người nói ra
Đã xa tít trên tầng mây vạn dặm
Tuyết chiều trên nghìn ngọn núi
Bóng lẻ ấy biết về đâu
Ngang bước sông Phần
Nhìn cảnh tịch mịch, nhớ tiếng trống năm xưa
Khói hoang vẫn như ngày nao bình quân Sở
Than ôi, khúc chiêu hồn nước Sở nay còn kịp chăng
Quỷ núi khóc trong mưa gió thê lương
Trời cũng hờn ghen
Chẳng thể nào tin được
Chim én chim oanh, rồi cũng thành đất bụi
Ngàn mối sầu vạn cổ
Lưu lại đợi người thơ
Hát trong điên cuồng, uống rượu trong đau khổ
Tìm lại nơi đâu nấm mộ chim nhạn năm nào
Bài dịch này tự do thoải mái..dịch chuẩn xác.
Hỏi thế gian, tình là vật gì
Mà khiến ta sống chết một lời hứa lụy
Lữ khách kẻ trời Nam người đất bắc
Khi đôi cánh mỏi, nhớ những lúc ấm lạnh
Khi hoan lạc vui vầy
Lúc chia ly đau khổ
Đều chỉ vì si mê một người con gái
Lời người nói ra
Đã xa tít trên tầng mây vạn dặm
Tuyết chiều trên nghìn ngọn núi
Bóng lẻ ấy biết về đâu
Ngang bước sông Phần
Nhìn cảnh tịch mịch, nhớ tiếng trống năm xưa
Khói hoang vẫn như ngày nao bình quân Sở
Than ôi, khúc chiêu hồn nước Sở nay còn kịp chăng
Quỷ núi khóc trong mưa gió thê lương
Trời cũng hờn ghen
Chẳng thể nào tin được
Chim én chim oanh, rồi cũng thành đất bụi
Ngàn mối sầu vạn cổ
Lưu lại đợi người thơ
Hát trong điên cuồng, uống rượu trong đau khổ
Tìm lại nơi đâu nấm mộ chim nhạn năm nào
Bài dịch này tự do thoải mái..dịch chuẩn xác.
Bài dịch 3: dịch bởi Điệp Luyến Hoa...thể lục bát
Thế gian, tình nghĩa là gì ?
Khiến người sinh tử hẹn vì có nhau!
Trời nam đất bắc cách đâu,
Rã rời mưa nắng, bạn bầu mấy khi.
Gặp nhau vui thú mấy thì,
Mà nay cách biệt chia ly nỗi đời.
Phải lòng nhi nữ ấy thôi,
Lời đây muốn ngỏ mà người cách xa.
Nghìn năm núi tuyết bao la,
Thân này lẻ bóng biết là về đâu.
Sông Phần nước chảy rầu rầu,
Mịt mờ trống gõ nơi đâu năm nào.
Khói hoang dẹp Sở khi nao,
Gọi hồn người cũ, biết đâu còn vừa ?
Núi này quỷ khóc trong mưa,
Trời kia đã ghét, phải chừa lòng tin.
Yến oanh rồi cũng cỏ vun,
Cho sầu mãi đợi mỏi mòn người thơ.
Uống cuồng cất khúc ngẩn ngơ,
Đến bên thăm lại nấm mồ nhạn đây.
bài dịch này hay ở chỗ người dịch dùng thể lục bát.. dịch có sáng tạo và hay...thậm chí có chỗ uyên thâm mà chính xác...mức biểu cảm rất cao...thi lực của ng này rất cao, ngưỡng mộ.
Thế gian, tình nghĩa là gì ?
Khiến người sinh tử hẹn vì có nhau!
Trời nam đất bắc cách đâu,
Rã rời mưa nắng, bạn bầu mấy khi.
Gặp nhau vui thú mấy thì,
Mà nay cách biệt chia ly nỗi đời.
Phải lòng nhi nữ ấy thôi,
Lời đây muốn ngỏ mà người cách xa.
Nghìn năm núi tuyết bao la,
Thân này lẻ bóng biết là về đâu.
Sông Phần nước chảy rầu rầu,
Mịt mờ trống gõ nơi đâu năm nào.
Khói hoang dẹp Sở khi nao,
Gọi hồn người cũ, biết đâu còn vừa ?
Núi này quỷ khóc trong mưa,
Trời kia đã ghét, phải chừa lòng tin.
Yến oanh rồi cũng cỏ vun,
Cho sầu mãi đợi mỏi mòn người thơ.
Uống cuồng cất khúc ngẩn ngơ,
Đến bên thăm lại nấm mồ nhạn đây.
bài dịch này hay ở chỗ người dịch dùng thể lục bát.. dịch có sáng tạo và hay...thậm chí có chỗ uyên thâm mà chính xác...mức biểu cảm rất cao...thi lực của ng này rất cao, ngưỡng mộ.
Còn sau đây là mấy bản dịch của Nhak
Bài dịch 4: dịch bởi NHAK...thể ngũ ngôn
Thế gian hỏi một tý
Tình ái tựa vật chi?
Sống chết thà chung lối
Thề nguyền mãi có đôi
Bắc nam phiêu bạc mãi
Nóng lạnh nhớ nhung ai
Hoan lạc vui vẻ mấy
Chia ly đau khỗ đầy
Nhi nữ đeo chi mãi
Lời yêu theo mây bay
Tuyết chiều in núi ẩn
Bóng lẻ bước phân vân
Bước ngang ngắm sông Phần
Nhìn cảnh nhớ trống ngân
Khói hoang quân Sở lặng
Chiêu hồn Khúc Sở chăng?
Quỷ yêu khóc khắp hướng
Mưa gió buồn thê lương
Yến oanh thành cát bụi
Tạo hoá cứ trêu người
Chiện cũ sầu lỡ dỡ
Lưu lại đợi người thơ
Khóc cười say lảo đão
Mộ kia ở nơi nào???
Ghi chú: dịch mí thể phú và mí thể nì khó khủng.... Có sửa lại theo ý của Sayuri
Thế gian hỏi một tý
Tình ái tựa vật chi?
Sống chết thà chung lối
Thề nguyền mãi có đôi
Bắc nam phiêu bạc mãi
Nóng lạnh nhớ nhung ai
Hoan lạc vui vẻ mấy
Chia ly đau khỗ đầy
Nhi nữ đeo chi mãi
Lời yêu theo mây bay
Tuyết chiều in núi ẩn
Bóng lẻ bước phân vân
Bước ngang ngắm sông Phần
Nhìn cảnh nhớ trống ngân
Khói hoang quân Sở lặng
Chiêu hồn Khúc Sở chăng?
Quỷ yêu khóc khắp hướng
Mưa gió buồn thê lương
Yến oanh thành cát bụi
Tạo hoá cứ trêu người
Chiện cũ sầu lỡ dỡ
Lưu lại đợi người thơ
Khóc cười say lảo đão
Mộ kia ở nơi nào???
Ghi chú: dịch mí thể phú và mí thể nì khó khủng.... Có sửa lại theo ý của Sayuri
Bài dịch 5: dịch bởi Nhak...thể song thất lục bát
"Thế gian ơi, tình ái , là gì ?
Mà sống chết, chỉ vì thề nguyện ?
Nam bắc bao lần luân chuyển,
Nóng lạnh vì ai, lưu luyến nhớ nhung."
Thế gian hỡi, ái tình chi ấy?
Câu thề nguyền trống mái có nhau,
Trời nam đất bắc xá đâu,
Vì ai nóng lạnh thảm sầu nhớ nhung.
Hoan lạc ấy, ung dung được mấy,
Chia ly đây, lạnh lẽo chất đầy !
Lời yêu vội đã theo mây,
Trách người con gái đong đầy chữ si.
Người lẻ bóng, tương tri cách trở,
Núi tuyết kia, cứ ngỡ người thân,
"Thế gian ơi, tình ái , là gì ?
Mà sống chết, chỉ vì thề nguyện ?
Nam bắc bao lần luân chuyển,
Nóng lạnh vì ai, lưu luyến nhớ nhung."
Thế gian hỡi, ái tình chi ấy?
Câu thề nguyền trống mái có nhau,
Trời nam đất bắc xá đâu,
Vì ai nóng lạnh thảm sầu nhớ nhung.
Hoan lạc ấy, ung dung được mấy,
Chia ly đây, lạnh lẽo chất đầy !
Lời yêu vội đã theo mây,
Trách người con gái đong đầy chữ si.
Người lẻ bóng, tương tri cách trở,
Núi tuyết kia, cứ ngỡ người thân,
Đi ngang qua ngắm sông Phần,
Cảnh đâu gợi nhớ trống ngân năm nào.
Khói hoang toả, ngày nào quân Sở,
Khúc chiêu hồn, Nước Sở, kịp chăng?
Quỷ ma đâu khóc dưới trăng,
Mưa gào, gió thét, càng tăng ưu sầu.
Trời ghen tức, dám đâu tin chắc,
Kiếp Yến Oanh, bụi cát trở về,
Mối sầu nhân thế lê thê,
Mong cùng tri kỷ hả hê với mình.
Một vò rượu, tỉnh mê cứ mặc,
Mộ Nhạn kia, ta nhắc làm chi !!!
Hỏi thế gian tình là chi.
ReplyDeleteMà sao đôi lứa hẹn thề không phai
Trời Nam đất Bắc cùng bay
Giờ đây nóng lạnh mấy ngày bên nhau
Vui hoan lạc, biệt ly đau
Cũng đều bởi chữ tình sầu nữ nhi
Mây cao lời vọng còn gì?
Ngàn non tuyết trắng biết đi chốn nào
Sông Phần xưa lạnh làm sao
Rừng hoang vấn vít lẫn vào khói sương
"Chiêu hồn" chưa kịp tang thương
"Quỷ sơn" mờ mịt mưa tuôn gió gào
Nhỏ nhen con Tạo làm sao
Yến oanh rồi cũng vùi sâu đất vàng
Từ xưa sầu hận ngút ngàn
Còn chờ mặc khách ôm đàn làm thơ
Hát như điên, uống như tù
Ta về thăm lại Nhạn xưa chốn này
Mình phiên phiến kiểu lục bát vầy coi có được không HAK ? Ngocctp
ReplyDeleteTôi đã đọc các bản dịch thơ, nay mạo muội góp 1 bản thể lục bát.
ReplyDeleteNhân gian tình ái là chi
Nguyện thề sống chết thị phi mặc đời
Trời nam đất bắc chuyển dời
Nhạn bay cánh mỏi nhớ thời hàn ôn
Hoan vui lạc thú xiết khôn
Sầu ly biệt khổ thoả hồn khách xa
Ngẩn ngơ nhi nữ tình ca
Lời chàng muốn ngỏ phôi pha vơi đầy
Thiên Sơn ngàn dặm tuyết mây
Bóng chiều mưa đổ trùng vây sông Phần
Vẳng xa tiếng trống giục quân
Khúc chiêu hồn Sở dấu chân dặm trường
Quỷ sơn than khóc thê lương
Trời ghen má thắm môi hường còn tin
Mối sầu vạn cổ vẫn in
Yến oanh bỗng chốc im lìm mồ con
Khách thơ ngang lối có còn
Nơi đây xác nhạn đường mòn nhớ không
Cảnh xưa bỗng hoá mênh mông
Mộ xanh ngày ấy giờ trông chốn nào.
_ Song Ngư _
quá hay! Rất thích bản dịch thất ngôn xen lục ngôn bát cú của bạn.
ReplyDelete