Skip to main content

Posts

Showing posts with the label Thơ Thiền

Sáng Tác: Phút Này

Thiên kiếp trước chẳng thấy, Vạn kiếp sau chẳng hay, Cầu chi điều nghi hoặc, Sống tốt giây phút này...

Sáng Tác: Giao Thừa 2012

Giao Thừa 2012 Chợt trong một khắc giao thừa, Bao nhiêu không sắc nhét vừa trầm luân. Dang tay bẻ một chồi xuân, Một hơi cực lạc nhu thuần hiện ra. Ta vui trong cõi ta bà, Mặc ai trong cõi phật đà cung mây. Trong cơn mộng mị cuồng say, Ta cười cả thế gian này trầm luân... Thán: Năm nào cũng vậy, cứ đúng giao thừa là lại làm một bài thơ thiền mở cửa lòng cho gió an lạc thổi vào. Mừng cho chúng sanh cùng ta còn ở lại vui vẻ nơi ta bà này ...

Dịch Thơ : Thị tịch của Vô Ngôn Thông

Thị tịch của Vô Ngôn Thông   Hán Văn: 一切諸法皆從心生 心無所生法無所住 若達心地所住無礙 非遇上根慎勿輕許 Phiên Âm: Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh Tâm vô sở sinh pháp vô sở trụ Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa. Dịch nghĩa: Tất cả các pháp đều từ tâm sinh Tâm không chỗ sinh, pháp không chỗ trụ Nếu đạt đất tâm chỗ trụ không ngại Không gặp thượng căn dè dặt chớ dạy. Bài dịch của Nhak : Pháp nào cũng tự Tâm ra Dù Tâm không có quê nhà ở đâu Dù Pháp không chốn trú lâu Chờ Tâm nảy hạt nhiệm mầu mầm xanh Thì Pháp tự có chỗ lành Đâu cần Tâm Pháp rành rành căn nguyên Thiện căn nếu chẳng cơ duyên Thì hoài vô ích chân truyền Pháp Tâm  Tiểu Dẫn: Năm Canh Tí, niên hiệu Nguyên Hoà đời nhà Đường, Sư sang An Nam ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ở đây mấy năm liền Sư chỉ quay mặt vào vách toạ thiền và không ai biết tông tích của Sư. Vị trụ trì nơi đây là Cảm Thành thầm biết Sư là Cao tăng đắc đạo nên hết s...

Dịch Thơ : Đạo vô ảnh tượng của Nguyện Học thiền sư

Đạo vô ảnh tượng của Nguyện Học thiền sư Phiên Âm Đạo vô ảnh tượng, Xúc mục phi dao. Tự phản suy cầu, Mạc cầu tha đắc. Túng nhiêu cầu đắc, Đắc tức bất chân. Thiết sử đắc chân, Chân thị hà vật? Dịch ngĩa: Đạo không có hình bóng cụ thể, Nhưng nó lại có ngay trước mắt, chẳng ở đâu xa. Phải tự suy nghĩ mà tìm trong bản thân mình, Chớ mong tìm được ở người khác. Nếu tìm [ở người khác] mà được, Thì đó chẳng phải là "chân đạo" nữa. Và dù có tìm được "chân đạo", Thì "chân đạo"sẽ là vật gì? Nhak dịch; Hạt đạo vốn đĩ vô hình, Lại ngay trước mắt, rành rành chẳng sai. Mỏi mòn hỏi Đạo của ai, Sao không hỏi Đạo ở ngay tâm mình. Đạo ai dẫu có tường minh, Chắc gì đã đúng Đạo mình tìm đâu. Một khi tìm được Đạo sâu, Hỏi chi Hạt Đạo sắc màu ra sao ... http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=20863

Dịch Thơ : Chân tính của Đại Xả thiền sư

Chân tính của Đại Xả thiền sư Phiên Âm Tứ xà đồng kiệp bản nguyên không, Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tòng. Chân tính linh minh vô khuể ngại, Niết bàn sinh tử nhiệm già lung. Dịch ngĩa: Đất, nước, lửa, gió cùng chung trong hộp [vật chất, thực ra] vốn là hư không, Năm yếu tố [làm thành thân thể và tâm trí người ta] tuy như núi cao song cũng chẳng có nguồn gốc. [Nếu] chân tính thiêng liêng sáng suốt chẳng vướng mắc gì, Thì có kể chi sự ràng buộc của niết bàn và sinh tử. Nhak dịch: Tứ xà dựng cả đất trời, Hỏi ra mới biết cũng vời hư không. Ngũ uẩn to nặng vô cùng, Hỏi ra mới biết không nguồn không nguyên. Chân tính thấu suốt thâm uyên, Hỏi ra Sinh Tử hão huyền cả thôi. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21189

Dịch Thơ : Chân dữ huyễn của Định Hương thiền sư

Chân dữ huyễn của Định Hương thiền sư Phiên Âm Bản lai vô sứ sở, Xứ sở thị châu tông. Chân tông như thị huyễn, Huyễn hữu tức không không. Dịch ngĩa: [Đạo] vốn không có xứ sở, Xứ sở của nó chính là cái chân tông. [Nếu nói rằng] chân tông cũng là huyễn, [Thì coi] cái "hữu" là huyễn và càng tỏ rõ cái "không" là không. Nhak dịch: Đạo trời vốn chẳng nguồn nguyên Hỏi rằng có phải diệu huyền chân tông? Chân tông vốn huyễn như không "Huyễn Không", "Huyễn Có" đều đồng hư không http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21307

Dịch Thơ : Hãn Tri Âm của Tịnh Giới Thiền Sư

Hãn tri âm của Tịnh Giới thiền sư Phiên Âm Thử thời thuyết đạo hãn tri âm, Chỉ vị như tư đạo táng tâm. Hề tự Tử Kỳ đa sảng sẩm, Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm. Dịch ngĩa: Lúc này bàn luận về đạo thì rất ít tri âm, Chỉ vì ngày nay đạo đã mất "tâm". Mấy ai được như Chung Tử Kỳ là người sành nhạc, Mới nghe qua, đã hiểu thấu tiếng đàn của Bá Nha. Nhak dịch: Tri âm đàm đạo mấy người ? Vì nay Tâm Đạo lạc loài chốn nao. Bá Nha tiếng nhạc thanh tao, Còn đâu tìm thấy chốn nao Tử Kỳ ? http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21208

Dịch Thơ : Vấn Kiều Trí Huyền của Đạo Hạnh thiền sư

Phiên Âm Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim), Bất tri hà xứ thị chân tâm. Nguyện thuỳ chỉ đích khai phương tiện, Liễu kiến như như đoạn khổ tầm. Dịch ngĩa: Lăn lóc nhiều giữa cõi phàm trần mà chưa nhận rõ vàng thau, Chẳng biết nơi nào là chân tâm. Mong người rủ lòng chỉ cho cái đích và mở ra phương tiện, Để thấy rõ "như như", khỏi phải khổ công tìm kiếm. Nhak dịch: Nhọc lòng tìm kiếm hạt vàng, Chân tâm vẫn lạc mêng mang cõi nào ? Cầu người chỉ lối Pháp cao, Tâm này bừng sáng thoát rào sân si. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21263

Thành chính giác của Y Sơn thiền sư

Thành chính giác của Y Sơn thiền sư Phiên Âm Như Lai thành chính giác, Nhất thiết lượng đẳng thân. Hồi hỗ bất hồi hỗ, Nhãn tình đồng tử thần. Dịch ngĩa: Khi đức Như Lai đã thành Chính giác, [Thì coi] thân của mọi vật đều có lượng bằng nhau. Điều quanh co cũng trở thành không quanh co, Trong cái thần trong sáng của con mắt trẻ thơ. Nhak dịch: Như Lai chánh quả ngộ thành, Muôn thân vạn vật một hình như nhau. Bao nhiêu tục luỵ sạch làu, Thênh thang đôi mắt một màu trẻ thơ. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=20697

Dịch Thơ : Thuỷ hoả đệ nhị kỳ của Huệ Sinh thiền sư

Thuỷ hoả đệ nhị kỳ của Huệ Sinh thiền sư   Phiên Âm : Tự cổ lai tham học, Nhân nhân chỉ vị Nam. Nhược nhân vấn tân sự, Tân sự nguyệt sơ tam. Nhak dịch: Học đạo chỉ cầu một đường, Ngàn năm cũng chỉ một phương mà tầm. Hỏi tìm pháp mới khai tâm, Lời rằng có mới, già tầm như trăng !!! http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21270

Dịch Thơ: Thuỷ Hoả Đệ Nhất Kỳ của Huệ Sinh Thiền Sư

Thuỷ Hoả Đệ Nhất Kỳ của Huệ Sinh Thiền Sư Phiên Âm Thuỷ hoả nhật tương tham, Do lai vị khả đàm. Báo quân vô xứ sở, Tam tam hưu tam tam. Dịch nghĩa: Nước, lửa ngày ngày thâm nhập lẫn nhau,  Nguồn gốc của chúng không thể bàn đến được.  Báo cho anh biết chúng không có xứ sở,  (Mà chỉ là) cái "nhất như" và cái "nhất như" mà thôi. Chủ nhân dịch: Ngày ngày thuỷ hoả tương giao, Ngọn nguồn ai biết thế nào mà tra ? Mỏi mòn muốn giải cho ra, Mà không biết thảy đều là hư không ... http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21269

Dịch Thơ: Quy tịch của Bảo Giác thiền sư

Quy tịch của Bảo Giác thiền sư Phiên Âm Vạn pháp quy không, vô sở y, Quy tịch, chân như mục tiền ky. Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ, Thuỷ thuỷ tâm nguyệt dẫn tâm nghi. Dịch ngĩa: Muôn vàn hiện tượng trở về với cái không, không nơi nương tựa, Trở về cõi tịch mịch thì chân như là cơ trước mắt. Cái tâm đạt ngộ đã viên mãn không thể chỉ ra được, [Quan niệm] cái tâm như ánh trăng ở trong nước [chính là phương pháp để] gạt bỏ cái tâm. Nhak dich; Vạn pháp cũng chỉ là không Làm sao có chỗ cho lòng tựa nương Đạo kia chỉ một con đường Ở ngay trước mắt mà dường xa xăm Làm sao chỉ được ngộ tâm Khác gì đáy nước bóng trăng lững lờ ... http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=20675

Sắc thân dữ diệu thể đệ nhất kỳ của Đạo Huệ thiền sư

Sắc thân dữ diệu thể đệ nhất kỳ của Đạo Huệ thiền sư Phiên Âm Địa thuỷ hoả phong thức, Nguyên lai nhất thiết không. Như vân hoàn tụ tán, Phật nhật chiếu vô cùng. Dịch ngĩa: Đất, nước, lửa, gió và ý thức, Vốn dĩ đều là không. Như đám mây hợp rồi lại tan, [Nhưng] mặt trời nhà Phật thì soi sáng không cùng. Nhak dịch:   Tứ xà, niệm thức như nhau, Hư không cũng lại một màu hư không. Hợp tan mây cuộn tầng không, Chỉ riêng Tâm Phật rực hồng trời cao. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=20694

Sắc thân dữ diệu thể đệ nhị kỳ của Đạo Huệ thiền sư

Sắc thân dữ diệu thể đệ nhị kỳ  của Đạo Huệ thiền sư Phiên Âm Sắc thân dữ diệu thể, Bất hợp bất phân ly. Nhược nhân yếu nhân biệt, Lô trung hoa nhất chi. Dịch ngĩa: Sắc thân dữ diệu thể, Bất hợp bất phân ly. Nhược nhân yếu nhân biệt, Lô trung hoa nhất chi. Nhak dịch: Diệu thể cùng với sắc thân, Không phân không hợp, ngàn lần chẳng sai. Cố chấp làm những trò hài, Khác gì lò lửa mọc vài luống hoa !!! http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=20695

Thất châu của Đạo Hạnh thiền sư

Dịch Thất châu của Đạo Hạnh thiền sư  Phiên Âm Nhật nguyệt xuất nham đầu, Nhân nhân tận thất châu. Phú nhân hữu câu tử, Bộ hành bất kỵ câu. Dịch ngĩa: Mặt trời rồi mặt trăng kế nhau mọc ở đầu núi, [Trên cõi đời này], người nào người ấy đều đánh mất hạt ngọc của mình. Như anh nhà giàu có con ngựa quý, Lại đi bộ mà không cưỡi ngựa. Nhak dịch: Trời trăng luân chuyển mỗi ngày, Cũng là hoạ phúc đổi thay từng người. U mê lắm kẻ nực cười, Vứt đi hạt ngọc, bỏ rơi tâm mình. Khác gì có ngựa chẳng tin, Cứ cho chân đất lội sình mà đi. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21262

Thị đệ tử bản tịch của Thuần Châu Thiền Sư

Dịch Thị đệ tử bản tịch của Thuần Châu Thiền Sư Phiên Âm Chân tính thường vô tính, Hà tằng hữu sinh diệt. Thân thị sinh diệt pháp, Pháp tính vị tằng diệt. Dịch ngĩa: Chân tính luôn luôn không có tính, Nó chưa từng có sinh, có diệt, Thân người là hiện tượng sinh diệt, (Nhưng) pháp tính thì chưa từng (sinh) diệt. Nhak dịch: Chân tâm sao có tính tình, Bởi vì có Diệt, có Sinh đâu nào? Chỉ riêng thân xác tanh tao, Mới lo Sinh Diệt nhuốm màu thế gian. Pháp tính cứ thế vững vàng, Xưa nay Sinh Diệt buộc ràng được đâu ... http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21218

Hữu tử tất hữu sinh của Trì Bát Thiền Sư

Dịch Hữu tử tất hữu sinh của Trì Bát Thiền Sư Phiên Âm Hữu tử tất hữu sinh, Hữu sinh tất hữu tử. Tử vi thế sở bi, Sinh vi thế sở hỉ. Bi hỉ lưởng vô cùng, Hỗ nhiên thành bỉ thử. Ư chư sinh tử bất quan hoài, Úm tô rô, tô rô, tất lỵ! Dịch ngĩa: Có chết ắt có sinh, Có sinh ắt có chết. Chết thì người đời buồn, Sinh thì người đời vui. Buồn vui, hai cái đều vô cùng, Xoay vần từ cái nọ đến cái kia. Bao giờ đối với chuyện sinh và chết mà không quan tâm đến, Thì úm tô rô, úm tô rô, thăng nhập. Nhak dịch: Đã sinh ra ở trên đời, Ắt là có lúc phải rời thế gian. Chết đi vứt hết băn khoăn, Ắt là khởi sự hạt mầm cái sinh. Sinh thì vui vẻ linh đình, Chết thì đau đớn, xót tình oán thân. Tử Sinh lần lượt đổi vần, Cái việc Sinh Tử há cần phải lo? Bao giờ tâm chẳng so đo Bấy giờ tức khắc qua bờ Tử Sinh http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21212

Hy di của Minh Trí Thiền Sư

Dịch Hy di của Minh Trí Thiền Sư Phiên Âm Giáo ngoại khả biệt truyền, Hy di tổ phật uyên. Nhược nhân dục biện đích, Dương diệm mịch cầu yên. Dịch ngĩa: Giáo ngoại chỉ có thể truyền theo cách riêng, Hy dy là bắt nguồn từ cõi Thiền. Nếu người ta muốn phân tích về nó, [Thì có khác chi] tìm tia khói ở trong bóng nắng. Nhak dịch: Suối đạo cứ giảng tuỳ duyên, Tuỳ theo tâm tính mà truyền khác nhau. Hy Di tổ phật thâm cao, Những lời truyền dạy nhiệm màu lắm thay. Luận đàm phân tích dở hay, Nắng trưa sao có sương mai mà tìm... http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21190

Huyễn pháp của Hiện Quang Thiền Sư

Dịch Huyễn pháp của Hiện Quang Thiền Sư Phiên Âm Huyễn pháp giai thị huyễn, Huyễn tu giai thị huyễn. Nhị huyễn giai bất tức, Tức thị trừ chư huyền. Dịch ngĩa: Phép huyền ảo đều là ảo, Tu huyền ảo đều là ảo. [Nếu biết] hai cái ảo đó đều không đến đâu, Ấy là trừ bỏ được mọi sự huyền ảo. Nhak dịch: Pháp là huyễn hoặc chớ theo Tu là huyễn hoặc chớ neo thuyền lòng Pháp Tu huyễn hoặc như không Chấp mê chút ấy sao mong niết bàn. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=20706

Ký Đỗ Ngân của Vạn Hạnh Thiền Sư

Dịch Ký Đỗ Ngân của Vạn Hạnh Thiền Sư Phiên Âm Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm (kim), Vị hà mưu ngã uẩn linh khâm? Đương thì ngũ khẩu thu tâm tuyệt, Trực chí vị lai bất hận tâm. Dịch ngĩa: "Thổ" và "mộc" sinh ra nhau, "cấn" đứng liền với "kim", Cớ sao lại chất chứa trong lòng mưu mô hại ta? Lúc bấy giờ lòng ta buồn bã vô cùng, Nhưng về sau thì chẳng còn để bụng oán giận. Nhak dịch: Thổ Mộc sinh nhau, Cấn liền Kim Oán hận chi cho đọng nỗi niềm Ngày trước chửa thông còn để bụng Sau này lạc đạo hoá bình yên http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=21308