Skip to main content

Sáng Tác: Vịnh Nhánh Mai Lề Đường Sau Tết



Ấp ủ hương xuân giữa màng không,
Một nhành mai nhỏ dáng cong cong.
Đem về hơi ấm mong toàn dạ,
Xua đuổi gió đông quyết hết lòng.
Tết đến ngát hương nằm cạnh cửa,
Xuân đi phai sắc vứt bên sông.
Trách người vội nỡ lòng phai bạc,
Rỏ lệ đau thương nỗi sầu đông...

Tiểu dẫn: 

Tết đến, nhà nào cũng sắm sửa đồ đạc, mua mai về trưng tết, để nơi trang trọng trong nhà. Được chừng mươi hôm, cành khô, hoa héo, lại đem vứt ra sân. Qua tết đi đường thấy hai bên lộ, cành mai vứt đầy, song vẫn chưa xúc động gì. 

Bẵng đi mấy ngày, đem mai giả đi cất (nhà trước vẫn trưng mai giả cùng mai thật, sau năm 2005 thì không thấy mấy ai trưng mai giả nữa) , chợt nghĩ: "Mai giả ít hư hao, bền hơn mai thật, nhưng cái khí chất mùa xuân quả thật vơi đi ít nhiều...". Nhớ đến mấy hình ảnh ngày trước, chợt xót xa cho loài hoa yêu kiều này. Con người quả thật bội bạc với trần gian. Mà mai hoa cũng là đáng thương lắm vậy. 

Mượn lời cây mai làm bài vịnh. Ban đầu làm hai câu cuối trước, rồi lần lên trên, hai câu thực làm sau cùng. Hai câu cuối sửa đi sửa lại không biết bao nhiêu lần. Làm thơ cực lắm thay !

Hai câu cuối lấy tứ "Xuân Mai gặp Sầu Đông": mai là báo hiệu mùa xuân mà cuối cùng phải gặp cái sầu của mùa đông, thật đáng thương lắm. Ban đầu không định hạ chữ "Trách", song cuối cùng lại thấy chẳng sai. Cân nhắc chọn giữa từ "phai bạc" và "bội bạc", có lẽ bội bạc hơi nặng, con người chẳng qua là vô tâm thôi, nên hạ chữ "phai bạc" là đúng nhất. Xong lại đến cân nhắc chữ "Rỏ lệ" và "Nhỏ lệ", chợt nhớ đến hình ảnh cành hoa hồng khóc trong tác phẩm "Hoàng Tử Bé" của Antoine de Saint-Exupéry, nên hạ chữ "Rỏ lệ"  thì hợp hơn. Có câu kết:

"Trách người vội nỡ lòng phai bạc,
Rỏ lệ đau thương nỗi sầu đông..."
 
Lần đến hai câu luận, đáng lẽ tứ câu này phải là thực mới rõ, nhưng làm câu thực thì tứ chẳng xuôi, vì báo cho người đọc cái ý đau thương của hoa mai sớm quá, chẳng thoả mãn được. Suy nghĩ đắn đo mãi mới quyết đặt làm câu luận. Không dùng kết tứ Đề - Thực - Luận - Kết nữa mà dùng kết tứ Bán Thiên - Bán Địa (nửa trên nửa dưới). Không suy nghĩ nhiều về câu từ: hạ cặp "nằm cạnh cửa" và "vứt bên sông", hạ tiếp cặp "ngát hương" và "phai sắc". Cân nhắc giữa "phai sắc" và "nhạt sắc", chọn "phai sắc" là ổn. Có được câu thực:

"Tết đến ngát hương nằm cạnh cửa,
Xuân đi phai sắc vứt bên sông."

Nghĩ được vậy rồi thì dễ hơn, làm câu đề mở ý về sự xuất hiện của hoa mai, chỗ này hạ cái vận "không" thì ổn rồi, kẹt cái vận kế "cong", vận có âm "ong" và "ông" cũng không nhiều lắm. Kiểm lại vài từ: song, cong, mong, trông, ... hạ chữ "cong cong" là xong.

"Ấp ủ hương xuân giữa màng không,
Một nhành mai nhỏ dáng cong cong."

Comments

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê. ...

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử ...

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc ...