Skip to main content

Dịch Thơ: Cửu Biệt Ly của Lý Bạch


Hán Văn:

久別離

別來幾春未還家, 
玉窗五見櫻桃花。 
況有錦字書, 
開緘使人嗟。 
至此腸斷彼心絕, 
雲鬟綠鬢罷梳結, 
愁如回飆亂白雪。 
去年寄書報陽臺, 
今年寄書重相催。 
東風兮東風, 
爲我吹行雲使西來, 
待來竟不來, 
落花寂寂委蒼苔。


Phiên Âm:

Cửu Biệt Ly

Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa
Huống hữu cẩm tự thư
Khai giam sử nhân ta
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuết

Khứ niên ký thư báo Dương Đài
Kim niên ký thư trùng tương thôi
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai !
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài...

Chủ Nhân dịch:

Đã mấy lần xuân chẳng ghé nhà,
Cành đào năm bảy bận ra hoa.
Thư ai gửi từ xa,
Làm khắc khoải lòng ta.
Tâm hồn một khối như lìa cắt,
Mái tóc hai màu thôi chải thắt,
Băng tuyết mấy lần lòng khúc trắc.

Năm trước gửi thư lên Dương đài,
Năm nay gửi thư giục van nài.
Gió đông ơi gió đông,
Vì ta hãy thổi mây vòng phía tây.
Đợi chờ vẫn chưa ai,
Chỉ hoa rơi phủ rêu trên đài ...

Giang Tiểu Ngư dịch:

Mấy xuân xa cách chửa về nhà
Năm lần cửa ngọc thấy đào hoa
Huống còn thư chữ gấm
Mở xem dạ xót xa
Quặn lòng đứt ruột đau khôn xiết
Tóc mây biếng chải,mai thôi kết
Sầu tựa gió về tung bạch tuyết

Năm trước gửi thư nhắn Dương Đài
Năm nay đưa thư giục giã hoài...
Gió đông chừ gió đông !
Hãy thổi mây bay về tây cho ai
Hẹn về sao cứ sai ?
Hoa rơi lặng lẽ lớp rêu phai...

Giang Tiểu Ngư dịch:

Mấy xuân xa cách chửa về nhà !
Đào đã năm lần trổ nhánh hoa
Huống nữa thư còn in chữ gấm
Mở xem ...lòng dạ hóa gần xa ....

Đau xé tâm cang một nỗi lòng
Tóc người thôi chải - thắt , càng không !
Buồn như gió thổi bay làn tuyết .
Năm ngoái Dương Đài thư gửi ... mong

Năm nay gửi nữa lại trông mong
Phơi phới đông phong ngọn gió lòng
Mong gió thổi về Tây ... gió nhé
Về vùng trời ấy đám mây trong

Người về ... chẳng thấy vẫn đợi mong
Hoa rơi lặng lẽ phủ rêu phong ...!

Comments

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê.

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử Hoan

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc