Skip to main content

Bình Luận: Luận về Thuận Nghịch Độc P1

Dẫn: Thơ Thất Ngôn Bát Cú dạng Thuận Nghịch Độc có lẽ là một trong những dạng khó nhất trong các phép chơi trong thể này. Nhân vừa rồi, bạn HuanYu có để một bài xướng dạng này, Micro có họa lại 2 bài nhưng đều bất thành văn lý. Làm một bài thuận nghịch độc đã khó, họa lại một bài thuận nghịch độc lại giữ nguyên bộ vận thi thì càng khó hơn. Một bài dạng này được nhiều người biết là bài cảnh xuân mà Micro trích ở đây:




Trích:
Cảnh Xuân


Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xuân biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười




Vì vậy viết bài nhỏ về dạng này để những bạn học chơi có điều kiện xem xét. Micro là một thợ thơ chứ không phải nhà thơ, nên cách viết cũng theo chiều hướng này. Mong bằng hữu thơ đừng chấp. Mạn phép.


Mục đích của bài này là xây dựng 2 bộ niêm luật bằng trắc cho dạng thơ này. Cũng như bàn về cách dựng câu trong họa thơ dạng này.


Dạng: thuận nghịch độc là thể thất ngôn bát cú mà trong đó có thể đọc ngược và xuôi theo 2 chiều để ra hai bài thơ khác nhau.
Bắt đầu xem xét nào về dạng đối của dạng này nào.


1. Về niêm: vì câu 1 niêm với câu 8, nên về niêm thì đảo lại vẫn bình thường.


2. Về Vận: vì đọc nghịch lại được nên chữ đầu các câu cũng phải hợp vận.
Nếu là bài vận bằng:
Chữ đầu các câu 1 3 5 7 8 phải hợp vận và là vận bằng. Do đó chữ đầu các câu 2 4 6 phải vận trắc.
Chữ cuối các câu 1 2 4 6 8 cũng phải hợp vận và là vận bằng nốt. Do đó chữ cuối các câu 3 5 7 cũng phải vận trắc.


Nếu là bài vận trắc thì suy luận tương tự


Ta có định dạng vận của bài vận bằng như sau:


A x x x x x B
O x x x x x B
A x x x x x O
O x x x x x B
A x x x x x O
O x x x x x B
A x x x x x O
A x x x x x B


A là một bộ vận bằng, B là một bộ vận bằng, O là vận trắc. Nếu theo luật bằng trắc chặt chẽ thì các chữ đầu câu 3, 4, 7 là thất luật trong bài thuận. Bài đảo thì thất luật ở chữ đầu câu 2, 5, 6. Muốn làm được bài dạng này buộc phải hi sinh thất luật ở các chữ đó.


3. Về thanh điệu:


Đây là phần khó nhất.


Lưu ý thứ nhất: Vì chữ thứ 2 câu đầu và chữ thứ 6 câu 8 (tức là chữ thứ 2 câu đầu của bài ngịch) cùng một vận, cho nên nếu bài thuận là bài bằng thì bài ngịch cũng là bài bằng.


Lưu ý thứ 2: vì trong thể này, chữ thứ 567 là cố định về thanh điệu, nên bài ngịch cũng cố định chữ thứ 123. Vậy một bài thuận nghịch độc chỉ có thể áp dụng luật nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh, chứ không áp dụng luật chặc chẽ được. Vì vậy ta sẽ thất luật ở các chữ thứ 1 và 3 các câu. Điều hay nhất là vì thơ có 7 chữ là lẻ, nên khi đảo lại thì luật nhất tam ngũ, nhị tứ lục vẫn được áp dụng chính xác. Hên ghê !


Lưu ý thứ 3: Vì là nhịp chẵn trước lẻ sau, 2/2/3 hay 4/3 nên nếu đọc nghịch lại cũng phải chẳn trước lẻ sau. Vì thế nhip 3 lẻ theo chiều thuận phải thành nhịp chẳn 4 trong chiều nghịch. Tức là chữ thứ 4 trong câu phải hợp nghĩa và nhịp với chữ thứ 5 6 7 theo chiều thuận và chữ 1 2 3 theo chiều nghịch.


Chép 2 bài bằng ra theo 2 chiều rồi ráp lại. Ta có như sau:


+ Nếu là bài luật bằng:


B B T T T B B
T T B B T T B
T/B T B/T B B T T
B/T B T/B T T B B
B B T T B/T B T
T T B B T/B T B
T/B T B/T B B T T
B B T T T B B


Chỗ B/T nghĩa là theo thuận thì phải bằng, nhưng theo nghịch thì phải trắc mới đúng luật. Vì theo thuận thì các vi trí đầu không quan trong về luật bằng trắc bằng các vị trí cuối nên phá luật. Còn vị trí đầu của bài thuận mà trùng với vị trí cuối của bài nghịch thì phải giữ lại.


Vậy, luật bằng trắc cho bài bằng như sau:


Trích:
B B T T T B B
T T B B T T B
B T T B B T T
T B B T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
B T T B B T T
B B T T T B B
Trong đó, nếu theo luật chặc chẽ thì phá luật ở chữ đầu câu 3, 4; chữ 3 câu 3,4,7.


+ Nếu là bài luật trắc thì lý luận tương tự sẽ có kết quả như sau:


Trích:
B T T B T T B
T B B T T B B
B B T T B B T
T T B B T T B
B T T B B T T
T B B T T B B
B B T T B B T
B T T B T T B
Trong đó, nếu theo luật chặc chẽ thì phá luật ở chữ đầu câu 1,5,8; chữ 3 câu 1,2 5,6,8.


+ Tương tự với bài vận trắc luật bằng và vận trắc luật trắc.


4. Về họa: Vì dạng này nên có 2 dạng họa. Một là họa đồng bộ vận với bài xướng, hai là họa đồng bộ vận với bài nghịch của bài xướng.


Vài lời lạm bàn, sai sót mong chỉ giáo thêm.

Comments

Popular posts from this blog

Cassandra, Thà Không Biết Còn Hơn

Hồi giữa tháng mười một này, có tham quan buổi triễn lãm về siêu thực ở cung điện nghệ thuật [1] tại Lyon. Triễn lãm bắt đầu từ tháng mười, vốn đã định đi từ đầu vì thấy cái tên Max Esnrt trong poster triễn lãm, vậy mà bận mãi đến giờ mới đi được. Thú vị thì nhiều thứ lắm, nhưng quá ấn tượng với tác phẩm Cassandra của Eugene Berman, nên về là thảo ý tưởng viết bài ngay. Cái tông đỏ ám ảnh của nó thật kỳ dị, quá kỳ dị và ngột ngạt, nhìn một hồi, không hiểu sao cứ lạnh sống lưng. Chắc do cảm lạnh, hi vọng thế. "Cassandra" của Eugene Breman Eugene Berman sinh năm 1899 ở Moscow, Nga, nhưng sống và làm việc chủ yếu ở phía tây, đặc biệt là Pháp. Nằm trong trường phái tân lãng mạn (neoromantism), ông thành công với các buổi triễn lãm ở Paris, sau đó ông đi New York rồi Los Angeles và về Rome rồi mất ở đấy. Phản đối lại hiện thực xấu xa của xã hội đương thời được gáng cho chủ nghĩa vật chất (materialism) hay chủ nghĩa hiện thực (realism), những con người vẫn còn hoài tưởng về chủ ng...

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử ...

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê. ...