Skip to main content

Đối đáp thơ: Điệp tự thi 2




Nhak xướng:
Tương tri ly cách kẻ tương tri,
Xuân thì gấp đến, tuổi gấp đi.
Xuân đến, xuân đi, đi lại đến,
Tuổi đi, tuổi đến, đến lại đi.
Người xa, người cách, người xa cách,
Kẻ biệt, kẻ ly, kẻ biệt ly.
Tóc bạc, bạc đầu , đầu bạc tóc,
Bi sầu, bị lụy, lụy sầu bi.


Bài này dùng 22/56 chữ.


HuanYu đáp:
Sắc sắc không không tâm bất thông.
Sắc giới vẫn vương,dục vẫn nồng.
Tâm tĩnh,tĩnh tâm,tâm không tĩnh.
Cấm lòng,lòng dục,dục chiếm lòng.
Tu tâm,tâm loạn,tu tâm loạn.
Thích sắc,sắc không,thích sắc không.
Lục dục,nhục tâm,tâm lục nhục.
Không thông,không sắc,sắc không thông.


Bài này dùng 19/56 chữ.


Koi đáp:
Tuyết tuyết điểm hoa, hoa điểm thi.
Hoa điểm thi, thi điểm mao trùy*.
Hoa hoa tuyết tuyết như lai khách.
Tuyết tuyết hoa hoa tự tứ thi.
Mao trùy, thi khách công thi lực,
Hoa tuyết, mỹ nhân điểm mỹ y.
Mao trùy điểm tuyết điểm duy điểm,
Tuyết hoa lai dã điểm nhân thi.


Bài này dùng 18/56 chữ.


Nhak đáp:
Thẩn thẩn thơ thơ mộng dại khờ
Duyên tình tơ tưởng vẫn còn mơ ?
Duyên còn thơ thẩn còn thơ thẩn,
Tình vẫn dại khờ vẫn dại khờ.
Ai mộng giấc tình, tình say giấc,
Người mơ tơ tưởng, tưởng vương tơ,
Ai người say giấc còn mộng tưởng
Khờ dại vẫn còn say mộng mơ ?


Bài này dùng 17/56 chữ. 


Koi đáp:
Bi ai cho chết cái bi ai! 
Xuân đà chưa hết, tình đà bay... 
Trăng tỏ trăng soi, soi chẳng tỏ, 
Mây say mây quyện, quyện không say. 
Nhớ nhung, nhung nhớ, lòng nhung nhớ, 
Lay lắt, lắt lay, dạ lắt lay. 
Tình bạc, bạc tình, tình phụ bạc, 
Hận ai, ai hận, hận với ai…


Koi đáp:
Than thân, than phận lại than thân 
Thân khổ, khổ thân, lắm nhọc nhằn 
Buồn bực, bực buồn, thân chi khổ 
Nhọc thân, thân nhọc, phận chi bần 
Bực cơn than bực, sao bần cực 
Nhọc nhằn than nhọc, lại phân vân 
Than cực lắm, đời chi cực khổ 
Thân bực phận lắm, buồn khổ hằng.

Comments

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê.

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử Hoan

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc