Skip to main content

Dịch Thơ : Nam Hành Biệt Đệ của Vi Thừa Khánh



Hán Văn:

南行別弟

澹澹長江水﹐ 
悠悠遠客情﹐ 
落花相與恨﹐ 
到地一無聲。


Phiên Âm:

Nam hành biệt đệ

Đạm đạm Trường Giang thuỷ, 
Du du viễn khách tình. 
Lạc hoa tương dữ hận, 
Đáo địa nhất vô thanh.


Chủ Nhân dịch:

Lững lờ nước cuộn trường giang,
Hững hờ viễn khách xa mang khối tình.
Hoa rơi như cũng thất tình,
Nhẹ rơi xuống đất vô hình vô thanh.


Chủ Nhân Bình:


Bài này nhiều người dịch, mà chẳng mấy ai dịch hay vì có 2 bản dịch đắc địa của các cụ.

Một là cụ Trần Trọng Kim :

"Êm-đềm mặt nước Trường-giang, 
Khách xa luống những ngổn-ngang mốt tình. 
Hoa rơi dường cũng bất bình, 
Tả tơi xuống đất lặng thinh bùi ngùi. "

Bản dịch này hay ở chỗ dịch tốt câu 3, vốn là dễ lại hóa khó, hạ được chữ "bất bình" rất đắc địa. Câu 1 và 2 tưởng khó mà thành dễ. Tuy dịch hơi xa nguyên tác, nhưng có khí thơ vượng. Vì vậy mà thành tuyệt tác dịch.

Hai là cụ Nam Trân 

"Sông dài nước chảy lênh đênh; 
Dặm nghìn đất khách mối tình mênh mông. 
Hoa kia chia mối hận long, 
Lúc rơi tới đất, tuyệt không tiếng gì. "

Bản dịch này hay ở chỗ dịch tốt câu 4. Khéo che chữ vô thanh, nhưng dùng được chữ "tuyệt không" thành ra cái vô thanh của nguyên tác còn kém tinh tế hơn bản dịch. Bản dịch này chỉ sảy một chút ở câu 2. Chữ "tình" và "đênh" không thuận cho lắm, dù hợp luật.

Những bản dịch hiện nay, khi dịch bài này thường chú tâm dụng tài vào câu 3, 4 chứ ít khi để tâm ở câu 1, 2. Thành ra đa số đều vụn ở câu này. Ta cố gò dc 2 chữ Lững lờ và Hững hờ làm cho 2 câu này có lực hơn và tinh tế hơn các bài dịch khác. 

Câu 3 vốn dĩ rất thích chữ "bất bình" của cụ Trần Trọng Kim, ban đầu dã định dùng chữ ấy rồi, nhưng sau lại thôi, vì bóng cụ lớn quá, nuốt không trôi, thành ra chuyển thành "thất tình". Vì vậy khí thơ kém hơn hẳn: 2 chữ tình trùng ở câu 2, 3. Khí không thông, nhưng mượn được chữ "vô hình vô thanh" thì sự tinh tế tuy không bằng chữ "tuyệt không" của Nam Trân nhưng hơn của bản nguyên tác.

Một bản dịch khác của Phạm Bá Chiểu

"Nước Trường Giang lặng lặng 
Tình viễn khách bời bời 
Hoa rơi chung nỗi hận 
Tiếp đất không nên lời"

Bản dịch thú vị ở hai câu cuối. Có thể nói 2 câu này dịch hay không thua gì cụ Nam Trân. Dù dịch hơi khá xa nguyên tác. Nhưng câu 4 thì bản dịch thơ hơn nhiều so với bản gốc, tự nó cũng đã là bài thơ hay. Câu 1,2 gượng chữ bời bời và lặng lặng để tạo cảm giác mới cho bài thơ, nhưng xem ra không thành công.


Trích một bình phẩm của Rio Kiddo:

"Em lại nghĩ trong bản gốc cũng có chữ "nhất", về khí chất không thua bản dịch của cụ Nam Trân bao nhiêu. 

Bản dịch của hai cụ thì rõ là hay rồi, em cũng không biết nhận xét gì hơn. Chỉ tiếc là bài thơ Nam hành biệt đệ có thể chia thành hai phần, 2 câu đầu là "lưu thủy vô tình", 2 câu sau là "lạc hoa hữu ý", cho thấy sự trái ngược của cảnh vật và lòng người. Mà cả 2 bản dịch đều không thoát được ý này."

Ps: Điều này thì em đúng Rio Kiddo. =))



Comments

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê.

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử Hoan

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc