Skip to main content

Sáng Tác: Nhìn Bỉ Ngạn Cười, Nhìn Bỉ Ngạn Khóc






Bỉ ngạn mọc bờ sinh tử,
Ký ức qua đây, để lại tương tư.
Nhớ thời cả hai chìm trong mộng tưởng,
Rong ruổi cùng nhau khắp bốn phương.

Bước qua những đền tháp đầy xương,
Tượng chúa xót đau nhìn lặng lẽ,
Lời nguyện cầu rất khẽ,
Cái nhìn âu yếm hoàng hôn.

Ân tình kiếp trước còn chôn,
Để kiếp này chút tình vương loạn,
Gặp nhau rồi đành đoạn,
Uống rượu chia ly.

Ân tình cũ cuồng si,
Gửi Bỉ Ngạn thu vào hồn máu.
Mặc ta trong luân hồi lục đạo,
Vạn kiếp lưu vong.

Cùng nhau vượt qua định kiến tổ tông,
Lại quay đầu buông xuôi tất cả,
Bỉ ngạn nở hoa không lá,
Bỉ ngạn ra lá không hoa.
Lá hoa cùng thân
Lại không cùng sống.
Dối nhau câu phù sinh nhất mộng,
Luyến ái còn theo.

Bờ Vong Xuyên lạnh lẽo,
Hoa Bỉ Ngạn vương hương.
Kiếp này lỡ đau thương,
Kiếp sau còn mong gặp ?

Nhìn Bỉ Ngạn cười,
Nhìn Bỉ Ngạn khóc,
Trách ta cố chấp.
Nhớ chối canh Mạnh Bà ở cửa đầu thai ...

Mơ một ngày,
Cùng nhau đến chân trời cuối đất.
Nắm tay kề cạnh,
Lãng du đến chốn khôn cùng ...








Thi thoại:


Cảm tác khi nghe bài Bỉ Ngạn Hoa. Nhân sự ấy mà viết bài này. Bỉ Ngạn hoa tương truyền mọc nơi Hoàng Tuyền, bên bờ Vong Xuyên hồ ở Minh Giới. Hoa đỏ rực như máu, dưới trăng ánh lên như lửa, tiếp dẫn người chết đến xứ u linh của địa ngục cho nên mới có câu "Tiếp dẫn chi hoa, hoả chiếu chi lộ". Linh hồn đi ngang qua Vong Xuyên, bi ai của một đời liền bị Bỉ Ngạn hút lấy, bèn quên hết tất cả những gì khi còn sống, chỉ lưu lại nơi Bỉ Ngạn mà thôi. Bỉ Ngạn hoa, nở một ngàn năm, tàn một ngàn năm. Hễ hoa nở thì lá tàn mất, hễ lá mọc thì hoa tàn mất, tuy cùng một cội rễ nhưng đời đời kiếp kiếp chẳng gặp được nhau, là một loài hoa kỳ lạ.

Truyền thuyết kể rằng loài hoa này vốn là một cặp nhân duyên trái luật, bị ông trời trừng phạt, vĩnh viễn không cho gặp mặt. Nhưng hai người họ, rốt cuộc có ngày, vì cảm mến nhau mà bỏ qua luật trời, thề nguyện ở với nhau đời đời kiếp kiếp, mãi mãi cùng một nơi. Vì trái luật trời, nên bị trừng phạt, trở thành một loài hoa lạ, hoa lá không thể diện kiến nhau. Trải qua trăm ngàn kiếp luân hồi, vì hận ý đó mà sinh ra oán khí, một màu rực lửa bi thương, ngút tận trời cao. Đức phật có lần đi ngang qua, thấy niềm hận ý đó, cảm thông tình cảnh của loài hoa này, bèn cầm lấy hoa trong tay muốn đưa lên thiên giới để cho cả hai được tái hợp mà giải lấy oán khí. Không ngờ khi đi qua Vong Xuyên, vô tình bị nước sông làm ướt áo. Khi mở tay áo ra, thấy oán khí của hoa trôi cả vào Vong Xuyên, còn lại trong tay áo một hoa màu trắng tinh anh. Phật liền hiểu ra đem đoá hoa này đặt trồng ở miền cực lạc gọi là Mạn Đà La Hoa. Lại nói ở Vong Xuyên, oán khí vạn kiếp của hoa ở lại, làm đỏ rực cả dòng sông, suốt ngày than khóc ai oán, khiến cho các vong nhân đi qua vong xuyên không muốn xuống địa ngục u linh mà vương vấn mãi những bi ai của trần gian. Đức phật quay lại Vong Xuyên, thả một hạt giống, oán khí của hoa lại quay về hạt giống đó rồi nở rộ, nguyện làm kẻ tiếp dẫn cho vong nhân. Hoa này có màu đỏ oán khí, gọi là Mạn Châu Sa Hoa, nguyện đời đời hấp thụ lấy ai oán của vong nhân, để vong nhân quên hết bi ai của trần gian mà thoải mái đi đến cầu Nại Hà đầu thai, cho những linh hồn đã rời khỏi nhân giới có một sự chỉ dẫn và an ủi. Trong kinh Phật có câu: “Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa diệp vĩnh bất tương kiến. Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử.”  

Vì vậy, hoa có hai màu: trắng gọi là Mạn Đà La Hoa, đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa, đều mọc ở bờ bên kia (Bỉ Ngạn) của sông Vong Xuyên, nên đều được gọi là Bỉ Ngạn Hoa. Hoa ngàn năm tàn, ngàn năm nở, hoa lá không thể cùng nhau, là kết tinh của bi ai trần gian.

Comments

Post a Comment

Để lại bình luận :...

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê.

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử Hoan

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc