Skip to main content

[Công Án] Công Án Triệu Châu Rửa Bát



Một vị tăng thưa với Triệu Châu: "Con vừa nhập thiền thất, Xin chỉ dạy. "Triệu Châu hỏi: "Con đã ăn cháo chưa?". Vị tăng trả lời: "Bạch, đã ăn rồi. ". Triệu Châu nói: "Vậy thì đi rửa bát đi.". Ngay lúc đó vị tăng liễu ngộ.

Cái khó trong công án này là ở chỗ, khám phá được chữ "bình thường" trong câu "bình thường tâm thị đạo" của thiền sư Nam Tuyền trả lời cho thiền sư Triệu Châu. Người đạt đạo thì lấy cái bình thường để sống, không gò không ép, không mong, không cầu. Nhưng cái bình thường này lại không tầm thường. Cho nên Vô Môn mới bàn là "Ta mong rằng ông ta không nhầm cái chuông với bình chế nước.". Nhiều người bảo, công án này vốn dễ hiểu, chỉ lời bàn là khó hiểu thôi. Ai thật hiểu công án này, cũng phải thật hiểu lời bàn của Vô Môn, nếu không chỉ là bóng trăng đáy nước. Người đạt đạo tâm không có chướng ngại, hành động cũng không chướng ngại, ăn uống ngủ nghỉ đều không chướng ngại. Người bình thường cũng ăn uống ngủ nghỉ như vậy, nhưng trong lòng có chướng ngại. Bề ngoài nhìn vào không khác gì nhau, kỳ thực lại khác rất lớn. Cho nên Vô Môn ở trên chỉ cho thấy câu "bình thường tâm thị đạo" thì ngay ở dưới chém một nhát thật đau để thấy câu "bình thường thì lại không phải là đạo". Đó chính là ý của câu "Ta mong rằng ông ta không nhầm cái chuông với bình chế nước.". Chuông và bính chế nước, hình dạng tương tự, công dụng thì lại khác xa. Người đạt đạo và người tầm thường, hình dung tương tự, trí tuệ lại khác xa nhau. Chớ có vinh vào câu "bình thường tâm thị đạo" để dương dương tự đắc cái tầm thường của bản thân mà cứ tưởng đạt đạo.

Vị tăng trong công án kia có liễu ngộ thật không, hay lại nhầm chuông với bình chế nước rồi, thật không rõ. Chỉ biết thiền sinh lướt qua công án này, không nên lầm lẫn. Người học phật ở Việt Nam rất hay vướng cái bịnh này, bám suốt vào câu "bình thường tâm thị đạo" của tổ Nam Tuyền như bám mẹ, thoát mãi không ra vì mãi nhầm giả tướng với thật tướng. Bản thân mình khi học phật cũng vướng cái bịnh này khá lâu. Thật may là tổ Triệu Châu thấy được bịnh này, lại cho thuốc chữa rất là hiệu quả. Chỉ một câu "Ta mong rằng ông ta không nhầm cái chuông với bình chế nước." đáng giá ngàn vàng, là tâm dược chữa bịnh quý giá. Lời của tổ, quả kinh người.

Ảnh minh họa: Buddha In My Mind Digital Art by H Kopp-Delaney

Comments

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê.

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử Hoan

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc