Skip to main content

Erté, Yểu Điệu Thục Nữ

Hôm nay ngày sinh của Erté, một trong những nghệ sĩ tài năng của Pháp. Vốn quên bén đi vì đang chuẩn bị cho chuyến đi du lịch, lướt một chút thì trang tin của Viện Met hiện lên, nhắc nhớ. Erté, tên thật là Romain de Tirtoff, thường ký tên R.T được phát âm thành Erté, mà sau này trở thành hiệu danh chính thức của ông.
Chữ ký của Erté
Erté không phải là họa sĩ theo đúng nghĩa, ông chỉ là một nhà thiết kế thời trang, một nhà thiết kế mỹ thuật; nhưng tài hoa của ông sớm được nhìn nhận như một họa sĩ và điêu khắc gia có ảnh hưởng trong thế kỷ 20. Di sản của ông, phần lớn là các bản vẽ minh họa, nhưng vẫn thể hiện gu thẩm mĩ tinh tế đặc biệt. 

Không mô tả nào phù hợp với tác phẩm của Erte bằng câu thơ tàu “yểu điệu thục nữ”[1]. Tác phẩm của Erte coi trọng đường cong, nhất là đường dợn sóng. Ở điểm này Erte gần với Victor Horta [2] hơn bất kỳ ai khác cho dù cả hai ở những lĩnh vực khác nhau. Cả hai yểu điệu đến mức cảm tưởng như tất cả tác phẩm được tạo nên bằng cách đồ lại những cuộn sóng ngoài biển. Erte yểu điệu trên trang giấy, Horta yểu điệu trên thanh sắt. Yểu điệu đến mức đường thẳng cũng dường như hóa cong. Ngắm mà xem.

Yểu điệu trong sáng tác của Erté.
Yểu điệu trong sáng tác của Horta.
Tác phẩm của Erté như cơn sóng dợn bãi biển.
Aubrey Beardsley[3] cũng yêu đường cong, nhưng mang màu sắc quỷ dị. Erte làm người ta yêu, Beardsley làm người ta sợ. Để minh họa, tôi chọn ra hai tác phẩm cùng sử dụng ảnh hưởng của Phương Đông, cùng cách mổ tả đơn sắc trắng-đen, nhưng cả hai vẫn thể hiện rõ phong thái khác biệt. Trong hình minh họa dưới đây, Beardsley dùng họa tiết con công theo kiểu Nhật, trong khi Erte dùng họa tiết đồng tiền theo kiểu Trung. Cả hai đều tập trung phô diễn nét huyền bí phương đông. Nhưng cô gái của Erte thì cảm giác muốn ôm ấp, còn con mụ của Beardsley thì nhìn chỉ muốn đá ra đường.

Thiết kế của Erte trên đây ảnh hướng văn hóa phương đông. Nét yểu điệu vẫn rất rõ. Khiến người ta yêu hơn sợ.
Đường cong của Aubrey Beardsley làm người ta sợ hơn là yêu. Tác phẩm này dùng ảnh hưởng của phong cách phương đông (Nhật).
Ba người còn lại mà chúng ta có thể ngó nghiêng so sánh về sự yểu điệu trong trào lưu Art Nouveau là Rene Gruau [4], Alphonse Mucha [5], và Louis Icart [6]. Yểu điệu của Gruau là con điếm Mỹ Quốc, sành đời và bất cần đời. Yểu điệu nhưng cáo già. Yểu điệu của Mucha là con thôn quê hoa hòe. Hoa hòe theo đúng nghĩa chữ hoa hòe. Yêu điệu mà diêm dúa. Dù vậy, rất đáng yêu và vô tư. Cuối cùng, yểu điệu của Icart là con Juliet mười ba tuổi của Shakespeare, sẵn sàng chết vì một thằng con trai vừa gặp nhau ba tiếng đồng hồ trong buổi tiệc; hoặc là một con bánh bèo vô dụng mê ngôn tình chỉ biết khóc và khóc và khóc và khóc ... 

Yểu điệu của Gruau.
Yểu điệu của Mucha.
Yểu điệu của Icart.
Tất nhiên ta có thể kể nhiều cái tên khác, cùng khu vực “fashion illustrator” với Erté, thay vì phải so sánh với các họa sĩ tài danh như Mucha hay Beardsley (đã vậy còn bị chê thậm tệ). Chẳng hạn, ta có thể nói về Dagmar Freuchen-Gale, Irwin Crosthwait, Paul Iribe [7] ... nhưng với tôi, họ chỉ đừng lại ở mức “talented fashion illustrator”. 

Tác phẩm của Dagmar Freuchen-Gale.
Tác phẩm của Irwin Crosthwait.
Tác phẩm của Paul Iribe.

[1] Câu thơ trong Kinh Thi, bài Quan Thư. 

[2] Victor Horta (1861 - 1947), nhà thiết kế mỹ thuật người Bỉ. Một trong những lãnh đạo của phong trào Nouveau Art.

[3] Aubrey Beardsley (1872 – 1898), nhà minh họa người Anh.

[4] Rene Gruau (1909 – 2004), một nhà minh họa thời trang người Ý. 

[5] Alphonse Mucha (1860 – 1939), một nhà thiết kế mỹ thuật người Czech. Một trong những lãnh đạo của phong trào Nouveau Art.

[6] Louis Icart (1888 - 1950), họa sĩ, nhà minh họa người Pháp. Ông này có thể không nên xếp vào nhóm Nouveau Art.

[7] Dagmar Freuchen-Gale, Irwin Crosthwait, Paul Iribe là những tên tuổi lớn trong giới minh họa thời trang.

Comments

Popular posts from this blog

Dịch Thơ: Hồng Đậu Sinh Nam Quốc

Hán Ngữ: 红豆生南国, 是很遥远的事情. 相思算什么, 早无人在意. 醉卧不夜城, 处处霓虹. 酒杯中好一片滥滥风情. 最肯忘却古人诗, 最不屑一顾是相思. 守着爱怕人笑, 还怕人看清. 春又来看红豆开, 竟不见有情人去采, 烟花拥着风流真情不在. Hán Việt: Hồng đậu sinh nam quốc Thị ngận diêu viễn đích sự tình. Tương tư toán thập yêu, Tảo vô nhân tại ý. Túy ngọa bất dạ thành, Xử xử nghê hồng. Tửu bôi trung hảo nhất phiến lạm lạm phong tình. Tối khẳng vong khước cổ nhân thi, Tối bất tiết nhất cố thị tương tư. Thủ trứ ái phạ nhân tiếu, Hoàn phạ nhân khán thanh. Xuân hựu lai khán hồng đậu khai, Cánh bất kiến hữu tình nhân khứ thải, Yên hoa ủng trứ phong lưu chân tình bất tại. Dịch thể lục bát: Đậu hồng sinh ở nước nam, Chuyện xưa kể lại mấy lần chửa thông. Hỏi tương tư có gì không, Từ lâu đã chẳng bận lòng chút chi. Ta say giữa phố cuồng si, Tình say men rượu tràn ly phong tình. Thơ xưa quên hết làm thinh, Tương tư tủi hổ riêng mình đắng cay. Dám đâu nhân thế tỏ bày, Sợ người thấu tỏ, sợ đời cười chê.

Dịch Thơ: Mô Ngư Nhi - Nhạn Khâu của Nguyên Hiếu Vấn

Ai coi tiểu thuyết hay phim cổ trang Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, chắc ai cũng có ấn tượng về bài thơ của Lý Mạc Sầu. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, Lý Mạc Sầu chỉ hát nửa đầu của bài từ mà thôi: Hỏi thế gian Tình ái là gì nhỉ ? Sống chết một lời hứa luỵ Nam Bắc phân chia hai đàng Mưa dầm nắng dãi quan san Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau Chung quy một kiếp tình sầu Khi vui gang tấc Ngàn sầu biệt ly Biết cùng ai, biết nói gì Chỉ trông mây núi người đi không về... Bài này là một bài từ, nguyên văn như sau: Phần hán văn:  摸魚兒-雁丘 問世間、情是何物, 直教生死相許? 天南地北雙飛客, 老翅幾回寒暑。 歡樂趣、 離別苦, 就中更有痴兒女。 君應有語, 渺萬里層雲。 千山暮雪, 只影向誰去? 橫汾路、 寂寞當年蕭鼓, 荒煙依舊平楚。 招魂楚些何嗟及, 山鬼暗啼風雨。 天也妒、 未信與, 鶯兒燕子俱黃土。 千愁萬古, 為留待騷人。 狂歌痛飲, 來訪雁丘處。 Phiên âm: Mô ngư nhi - Nhạn khâu Vấn thế gian tình thị hà vật Trực giao sinh tử tương hứa Thiên nam địa bắc song phi khách Lão sí kỷ hồi hàn thử Hoan

Sáng Tác: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh"

Dẫn: "Thơ Thanh Giảng Tục" và "Thơ Tục Giảng Thanh" là hai loại trào phúng trong thơ tương đối thú vị, nhưng ít được coi trọng vì trái với lễ nghĩa thông thường.  "Thơ Thanh Giảng Tục" tức là bài thơ lời lẽ thanh cao, nhưng hàm nghĩa bên trong lại thô tục, thường là tả lại những cảnh phòng the. "Thơ Tục Giảng Thanh" tức là bài thơ lời lẽ thô tục, gợi cho người đọc những hình ảnh tục tiểu, nhưng giải nghĩa ra thì lại là những hình ảnh rất bình thường, trong sáng.  Thơ Thanh Giảng Tục:   Đánh Trận Đêm Một kẻ trông xuôi, kẻ chổng đầu, Anh hùng điên đảo giữa đêm thâu. Hang hùm mở thẳng đường hiểm địa, Kiếm ngọc đâm xuyên lối ngục sâu. Hai tướng giao tranh giành một tối, Tinh binh công tiến đánh giờ lâu. Thủy công, biển nước tràn hang cốc, Thắng trận, lui quân rửa máu sầu. Thơ Tục Giảng Thanh:  Thử Giầy Mới Hì hục hai tay mở lỗ tròn, Đút vào sao thấy hãy còn non. Thọc sâu, cả mép liền khít chặt. Thúc